Cuộc đời Tái Tuần

Tái Tuần sinh vào giờ Dần, ngày 3 tháng 5 (âm lịch), năm Quang Tự thứ 11 (1885). Ông là con của Thuần Hiền Thân vương Dịch HoànTrắc Phúc tấn Lưu Giai thị. Ông được nhận nuôi bởi Dịch Chí (奕誌; 1827 - 1850), con trai của Thụy Hoài Thân vương Miên Hân.

Năm Quang Tự thứ 13 (1887), tháng giêng, ông được phong Bất nhập bát phân Phụ quốc công (不入八分辅国公).

Năm thứ 15 (1889), được tấn phong Phụ quốc công (辅國公).

Năm thứ 16 (1890), tháng 12, tấn thăng Trấn quốc công (镇國公).

Năm thú 20 (1894), ông được ban thưởng mang Tam nhãn Hoa linh (三眼花翎).

Năm thứ 26 (1900), Tái Y (載漪), con của Đôn Cần Thân vương Dịch Thông, cũng là một người con nuôi của Dịch Chí, bị phế tước Đoan Quận vương (端郡王) và bị đày đến Tân Cương để tham gia Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn.

Năm thứ 27 (1901), tháng 10, ông được hành tẩu tại Ngự tiền.

Năm thứ 28 (1902), ông trở thành Tộc trưởng của Hữu dực Cận chi đệ tam tộc (右翼近支第三族) [1]. Tháng 6, ông phụng chỉ quá kế Thụy Mẫn Quận vương Dịch Chí, tập tước Bối lặc (贝勒). Tháng 12, nhậm Tiền dẫn Đại thần (前引大臣)

Năm thứ 34 (1908), tháng 10m nhậm Nội đại thần (内大臣). Tháng 11, ông được gia hàm Quận vương (郡王).

Năm Tuyên Thống nguyên niên (1909), ông được giao làm "Hải quân Đại thần" (海軍大臣) bởi Khánh Thân vương Dịch Khuông. Sau đó ông được đưa sang châu ÂuHoa Kỳ để nghiên cứu lực lượng hải quân của các cường quốc phương Tây.

Năm Tuyên Thống thứ 3 (1911), sau khi quay về Trung Quốc, ông chính thức trở thành một vị tướng của hải quân nhà Thanh. Sau khi Cách mạng Tân Hợi lật đổ triều đại nhà Thanh, ông sống cả phần đời còn lại ở Bắc KinhThiên Tân. Ông qua đời tại Thiên Tân năm 1949.